-
This is default featured slide 1 title
Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by NewBloggerThemes.com.
-
This is default featured slide 2 title
Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by NewBloggerThemes.com.
-
This is default featured slide 3 title
Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by NewBloggerThemes.com.
-
This is default featured slide 4 title
Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by NewBloggerThemes.com.
-
This is default featured slide 5 title
Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by NewBloggerThemes.com.
Paris By Night 103 - Tình Sử Trong Âm Nhạc Việt Nam (2011)
Paris by Night 103 - Tình Sử Trong Âm Nhạc Việt Nam là chương trình Đại nhạc hội trực tiếp thâu hình do Trung tâm Thúy Nga tổ chức vào hai ngày:
- Thứ Bảy 7 tháng 5 năm 2011 lúc 7:30 tối
- Chủ Nhật 8 tháng 5 năm 2011 lúc 1:30 trưa
Chương trình được điều khiển bởi nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn và Nguyễn Cao Kỳ Duyên.
ĐĨA A
01. Yêu (Văn Phụng) Như Loan, Diễm Sương
02. Lời mở đầu Nguyễn Ngọc Ngạn, Kỳ Duyên
03. Gọi người yêu dấu (Vũ Đức Nghiêm) Thanh Hà
04. Người đi qua đời tôi (Phạm Đình Chương) Trần Thái Hòa
05. Họp mặt lần cuối (Song Ngọc) Hương Thủy
06. Sầu khúc mùa đông (Đức Trí) Hương Giang
07. Hỏi người còn nhớ đến ta (Hoàng Thi Thơ) Trịnh Lam
08. Video clip nhạc sĩ Ngọc Sơn
09. Nét son buồn (Ngọc Sơn) Ngọc Liên
10. Muộn (Nguyễn Hồng Thuận) Lưu Bích
11. Hoang mang (Võ Hoài Phúc) Quỳnh Vi
12. Giáng ngọc (Ngô Thụy Miên) Bằng Kiều
13. Video clip Mặc Thế Nhân
14. Em về với người (Mặc Thế Nhân) Hạ Vi
15. Video clip Hàn Châu
16. Tội tình (Hàn Châu) Duy Trường
17. Phỏng vấn Duy Trường
18. Anh và em (Vũ Quốc Việt) Lương Tùng Quang
19. Nghìn trùng xa cách (Phạm Duy) Thu Phương
20. Một đời yêu em (Trần Thiện Thanh) Thế Sơn
21. Môi xinh nụ cười (Hoài An) Mai Tiến Dũng
22. Phỏng vấn Mai Tiến Dũng
BONUS MTV
Xin làm người xa lạ (Tú Nhi) Khánh Lâm
ĐĨA B
01. Hài kịch Môn đăng hộ đối Chí Tài, Hoài Tâm, Hương Thủy, Việt Hương
02. Video clip nhạc sĩ Thanh Sơn giới thiệu về nhạc sĩ Trúc Phương
03. Hai chuyến tàu đêm (Trúc Phương) Quang Lê
04. Video clip nhạc sĩ Thanh Sơn
05. Trả lại thời gian (Thanh Sơn) Như Quỳnh
06. Còn tuổi nào cho em (Trịnh Công Sơn) Minh Tuyết
07. Tuổi đá buồn (Trịnh Công Sơn) Quang Dũng
08. Xin trả nợ người (Trịnh Công Sơn) Khánh Ly
09. Trái tim tội lỗi (Quốc Dũng) Lam Anh
10. Video clip nhạc sĩ Hoàng Trang
11. Nếu đời không có anh (Hoàng Trang) Mai Thiên Vân
12. Video clip nhạc sĩ Diệu Hương
13. Đời không còn nhau (Diệu Hương) Don Hồ
14. Bài không tên cuối cùng (Vũ Thành An) Ngọc Anh
15. Một mình trong đêm (Quốc Hùng) Kỳ Phương Uyên
16. Tình yêu không có lỗi (Minh Nhiên) Nguyễn Hưng
17. Chén đắng (Trương Lê Sơn) Hồ Lệ Thu
18. Gục ngã (Phúc Trường) Tóc Tiên
19. Finale
Paris By Night 035 (VHS)
Paris By Night 35 là chương trình Đại nhạc hội trực tiếp thâu hình do Trung tâm Thúy Nga tổ chức, quay tại Paris. Dẫn chương trình là Nguyễn Ngọc Ngạn và Nguyễn Cao Kỳ Duyên. Chương trình phát hành dưới dạng VHS năm 1996. Đây là một chương trình khác của Paris By Night không có tựa đề đặc biệt, giống như Paris By Night 1-12, 14-18, Paris By Night 25, Paris By Night 31 & Paris By Night 50.
PBN số 35
Đạo diễn Richard Valverde
Tổ chức sản xuất Marie Tô
Dẫn chương trình Nguyễn Ngọc Ngạn
Nguyễn Cao Kỳ Duyên
Quay tại Paris, Pháp
Quay ngày 1996
Địa điểm {{{venue}}}
Định dạng 2-Băng VHS
Phát hành 1996
Băng 1
01. Ngựa Phi Ðường Xa (Lê Uyên) - Thế Sơn, Nguyễn Hưng, Chí Tài
02. Lời Tình Buồn (Vũ Thành An) - Thanh Hà
03. Suspicion (Lời Việt: Trường Kỳ) - Henry Chúc
04. Giọt Sầu Trinh Nữ (Thu Hoài Nguyễn - Đan Linh) - Phương Loan
05. Tình Lỡ - Jenny Loan
06. Tấu Hài - Vân Sơn, Hoài Linh
07. Cánh Hoa Tàn Úa (Lời Việt: Nhật Ngân) - Diễm Liên
08. Cô Bé Hờn Dỗi (Nguyễn Ngọc Thiện) - Bảo Hân
09. Kiếp Sau (Nhật Ngân, Thơ: Trần Mộng Tú) - Ái Vân
10. Sang Ngang (Đỗ Lễ) - Dalena
Băng 2
11. Sunshine Day - Don Hồ
12. Cơn Mưa Trong Ðời (Lời Việt: Khúc Lan) - Ngọc Lan
13. Hoàng Hôn Màu Tím (Thế Hiển) - Hương Lan
14. Xóm Ðêm (Phạm Đinh Chương) - Duy Quang, Thế Sơn, Nguyễn Hưng
15. Everyman Needs A Woman (Lời Việt: Nhật Ngân) - Phi Phi
16. Thu Ðến Bao Giờ (Lam Phương) - Ý Lan
17. Thuyền Hoa (Phạm Thế Mỹ) - Nguyễn Hung & Ái Vân
18. All Alone (Vũ Tuấn Đức) - Khánh Hà
19. Trò Chơi (Oãnh Tù Tì) (Tôn Thất Lập) - Thế Sơn & Bảo Hân
Điện Ảnh Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Điện Ảnh Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Sau năm 1954, các nhà làm phim của miền Bắc vẫn tiếp tục với các phim tài liệu. Một vài phim tài liệu ngắn mang tính lịch sử như Hội nghị quân sự Trung Giã, Tù hàng binh dưới chế độ ta, Tiếp quản Thủ đô và các phim thời sự về sinh hoạt của tù binh Âu - Phi, trao trả tù binh ở Tuyên Quang, Việt Trì, Sầm Sơn. Năm 1955, các phim tập trung phản ánh cuộc sống thay đổi sau chiến tranh, chống di cư, chuyển quân tập kết. Từ năm 1956, phim thời sự ra đều hàng tuần. Năm 1959, bộ phim tài liệu Nước về Bắc Hưng Hải của đạo diễn Bùi Đình Hạc đã đạt huy chương vàng ở liên hoan phim Moskva.
Một phương thức để phổ biến điện ảnh khi đó là các buổi chiếu bóng lưu động: phim được chiếu ở một khu đất trống với một màn ảnh được dựng lên, máy chiếu được chạy nhờ máy phát điện. Nhiều đơn vị chiếu bóng được thành lập tới các vùng nông thôn và cả thành thị phục vụ khán giả. Năm 1954 khi cuộc chiến Việt-Pháp kết thúc, toàn miền Bắc có 26 rạp và 23 đội chiếu bóng lưu động. Năm 1955 tăng lên 37 rạp và 37 đội chiếu bóng. Năm 1963, 46 rạp và 11 bãi chiếu phim ngoài trời, 269 đội chiếu bóng phục vụ 112.804.000 lượt người xem. Năm 1964 số lượng tăng lên tới 48 rạp và 11 bãi chiếu phim và 277 đội chiếu bóng nhưng số lượt người xem giảm xuống còn 77.414.720. Hoa Kỳ bắt đầu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, vì lý do an ninh các đội chiếu bóng và bãi chiếu bóng không tập trung đông người nữa.
Năm 1956, tổ chức điện ảnh được tách riêng làm hai bộ phận: Xưởng phim Việt Nam và Quốc doanh phát hành phim và chiếu bóng Việt Nam. Cũng trong thời gian này, Cục Điện ảnh được thành lập. Năm 1957 báo Điện ảnh xuất hiện. Đến năm 1959, Trường Điện ảnh Việt Nam, Nhà máy cơ khí điện ảnh, Xưởng phim Hoạt hoạ và búp bê Việt Nam, Xưởng phim Thời sự, tài liệu Trung ương lần lượt ra đời.
Một số hoạt động văn nghệ khác được coi như bước chuẩn bị cho phim truyện. Phan Nghiêm, từ Việt Bắc về Hà Nội đã cải biên, quay và thu thanh tại chỗ vở kịch Lòng dân bằng phim 16 mm, sau đó hòa âm tại Tiệp Khắc. Xưởng phim Việt Nam cũng đã làm thử một số tiểu phẩm. Đầu tiên, đạo diễn Phạm Kỳ Nam, quay phim Trần Thịnh cùng các diễn viên Tuệ Minh, Hoà Tâm, đã dựng và quay tiểu phẩm về Võ Thị Sáu. Tiểu phẩm thứ hai dựa theo truyện ngắn Thư nhà của nhà văn Hồ Phương. Tiêu phẩm này được mang tên Người chiến sĩ (còn có tên khác là Cô lái đò bến Chanh), đạo diễn Trần Công, quay phim Khương Mễ cùng các diễn viên Phi Nga, Huy Công, Cam Ly, Khang Hy. Tiểu phẩm thứ ba có tên Nhựa sống nói về hoạt động của học sinh sinh viên nội thành thời gian thuộc quyền kiểm soát của Pháp. Đạo diễn Phạm Kỳ Nam, quay phim Thẩm Võ Hoàng. Các vai chính do Bích Vân, Trần Phương và Tự Huy đóng.
Năm 1958, đạo diễn Mai Lộc làm bộ phim Biển động. Kịch bản do soạn giả cải lương Ngọc Cung viết, nội dung về cuộc khởi nghĩa thất bại ở Hòn Khoai, Cà Mau năm 1940. Phim hoàn thành nhưng khi duyệt hòa âm thì không được thông qua. Trong cuốn sách Điện ảnh Việt Nam thuở ban đầu đạo diễn Mai Lộc viết lại: "Phim không được thông qua vì nội dung phim không phù hợp với đường lối chính trị lúc bấy giờ, là đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, mà phim lại mô tả một cuộc nổi dậy thất bại tại miền Nam. Vì thế bộ phim truyện đầu tay của chúng tôi đã thất bại...". Một số kịch bản phim truyện khác cũng đã được viết, nhưng chưa kịch bản nào được dựng thành phim.
Giai đoạn 1959-1965
Năm 1959 được coi là điểm mốc với sự ra đời của bộ phim truyện điện ảnh Cách mạng đầu tiên: Chung một dòng sông.
Từ năm 1958 một bộ phim truyện đã được triển khai. Kịch bản đầu tiên mang tên Tình không giới tuyến, của tác giả Cao Đình Báu viết từ đầu năm 1957, nói về mối tình bị chia cắt của hai nhân vật Hoài và Việt sống trên đôi bờ sông Bến Hải. Ban đầu Tình không giới tuyến chỉ là một cốt truyện sơ lược. Sau khi được góp ý kiến, Cao Đình Báu và Đào Xuân Tùng đã sửa chữa và hoàn chỉnh kịch bản đổi tên thành Chung một dòng sông.
Cốt truyện Chung một dòng sông đơn giản, nhưng đề cập đến vấn đề thời sự khi đó. Theo hiệp định Genève, sông Bến Hải trở thành giới tuyến tạm thời phân chia hai miền Nam Bắc. Hai nhân vật chính Vận và Hoài yêu nhau nhưng bị dòng sông chia cắt. Đạo diễn phim là Nguyễn Hồng Nghi và Phạm Hiếu Dân (tức Phạm Kỳ Nam), quay phim Nguyễn Đắc, họa sĩ thiết kế Đào Đức. Chung một dòng sông được công chiếu ngày 20 tháng 7 năm 1959 đã giành được nhiều thiện cảm của khán giả.
Năm 1960 cũng là năm đánh dấu của phim hoạt hình với bộ phim đầu tiên Đáng đời thằng cáo. Tiếp đó đến các phim Chiếc vòng bạc, Chú thỏ đi học... được sản xuất.
Sau Chung một dòng sông, các nhà làm phim Cách mạng tiếp tục thực hiện các bộ phim truyện khác. Đề tài lớn nhất trong giai đoạn này là cuộc Chiến tranh Việt-Pháp vừa kết thúc. Từ năm 1959 đến 1964, có 18 bộ phim thì 11 nói về đề tài trên: Vợ chồng A Phủ (1961), Lửa trung tuyến (1961), Chim vành khuyên (1962), Chị Tư Hậu (1963), Kim Đồng (1964)... Ngoài ra, đề tài xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc cũng được đề cập đến trong các phim: Khói trắng (1963), Cô gái nông trường (1960), Vườn cam (1960)... Cho tới tận 1964 thì Chung một dòng sông vẫn là phim duy nhất về đề tài Chiến tranh Việt Nam.
Trong những năm đầu, ngoài Phạm Kỳ Nam từng học đạo diễn ở Học viện Điện ảnh Pháp (Institut des hautes études cinématographiques), các nghệ sĩ còn lại chỉ tự học, làm quen với điện ảnh bằng những phim tài liệu trước đó. Đến năm 1962 mới xuất hiện lớp nghệ sĩ thuộc khóa đạo diễn đầu tiên của trường Điện ảnh Việt Nam. Một khó khăn khác là sự yếu kém của kịch bản, lý do văn học Cách mạng thời kỳ này cũng rất yếu, với phần lớn là truyện ngắn, rất ít truyện dài hay tiểu thuyết. Trong những phim thời kỳ đó, Vợ chồng A Phủ làm từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Tô Hoài, Chị Tư Hậu, Chim vành khuyên được xem là thành công.
Về diễn viên, ngoài những nghệ sĩ sân khấu chuyển sang điện ảnh như Phi Nga, Danh Tấn, Tuệ Minh, Trung Tín, Văn Phức, Mai Châu, Thu An... giai đoạn này đã xuất hiện những gương mặt mới sẽ là trụ cột của điện ảnh Cách mạng giai đoạn sau: Trà Giang, Lâm Tới, Đức Hoàn...
Giai đoạn 1965-1975
Từ cuối năm 1964, Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc, Chiến tranh Việt Nam bước vào thời kỳ khốc liệt nhất. Điện ảnh miền Bắc với nhiệm vụ tuyên truyền bắt đầu quay lại đề tài về cuộc chiến đang diễn ra. Thời kỳ này đội ngũ làm phim đã đa dạng và trưởng thành hơn. Ngoài lớp nghệ sĩ thứ nhất, xuất hiện lớp nghệ sĩ thứ hai là những người được đào tạo tại trường Điện Ảnh Việt Nam khóa đầu tiên. Thế hệ nghệ sĩ thứ ba là những nhà làm phim học ở Đại học điện ảnh Moskva về nước năm 1962.
Giai đoạn này, phim tài liệu vẫn đóng vai trò quan trọng. Một số phim đã đạt giải thưởng tại các liên hoan phim quốc tế như: Lũy thép Vĩnh Linh của đạo diễn Ngọc Quỳnh đạt huy chương vàng Liên hoan phim Moskva năm 1971, Đầu sóng ngọn gió của đạo diễn Ngọc Quỳnh, Du kích Củ Chi của đạo diễn Trần Nhu, Đường ra phía trước của đạo diễn Hồng Sến cũng thành công tại các kỳ Liên hoan phim Moskva. Những người dân quê tôi của đạo diễn Trần Văn Thủy đoạt giải Bồ Câu Bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig năm 1970...
Ngành phim hoạt hình cũng giành được hai giải thưởng quốc tế. Nổi trội là các phim Mèo con, Chuyện ông Gióng, Con sáo biết nói, Kăm Phạ - Nàng Ngà, Con khỉ lạc loài.
Nối gót Chung một dòng sông, năm 1965 Hãng phim truyện Việt Nam sản xuất phim Trên vĩ tuyến 17 với hai đạo diễn Lý Thái Bảo và Nhất Hiên. Phim bị đánh giá là đơn giản, không để lại dấu ấn gì. Năm 1966, hãng thực hiện phim Nổi gió dựa trên vở kịch cùng tên của tác giả Đào Hồng Cẩm. Đạo diễn bộ phim là Huy Thành với quay phim Nguyễn Đăng Bẩy. Đây là bộ phim đầu tiên của miền Bắc nói về cuộc chiến tranh với bối cảnh miền Nam. Nổi gió còn giới thiệu cho khán giả hai tài năng diễn xuất là Thế Anh, trong vai Trung úy Phương và Thụy Vân, vai chị Vân.
Năm 1972, đạo diễn Hải Ninh thực hiện bộ phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm. Đây là bộ phim truyện dài 2 tập đầu tiên của Việt Nam do Hãng phim truyện Việt Nam sản xuất. Vai chính Dịu trong phim do diễn viên Trà Giang thể hiện. Vĩ tuyến 17 ngày và đêm đã giành được giải của Hội đồng hoà bình Thế giới Liên hoan phim Quốc tế Moskva năm 1973. Cũng trong liên hoan phim này, Trà Giang đạt giải nữ diễn viên xuất sắc. Năm 1974, đạo diễn Hải Ninh tiếp tục có một phim đáng chú ý khác là Em bé Hà Nội. Ngoài hai diễn viên nổi tiếng là Trà Giang và Thế Anh, vai em bé Hà Nội do diễn viên Lan Hương diễn xuất. Bộ phim được xem là đã khắc họa thành công đời sống của Hà Nội trong những ngày chịu sự tấn công của Không quân Hoa Kỳ.
Một số bộ phim đáng chú ý khác của giai đoạn này có thể kể đến: Đến hẹn lại lên (1974) của đạo diễn Trần Vũ, Tiền tuyến gọi (1969) cùa Phạm Kỳ Nam. Ngoài những bộ phim dài, điện ảnh miền Bắc còn sản xuất các bộ phim ngắn với mục đích tuyền truyền như Cô giáo Hạnh (1967), Biển gọi (1967), Một chiến công (1968), Em Phước (1969), Bức tranh để lại (1970), Chị Nhung (1970)...
Từ năm 1970, Liên hoan phim Việt Nam bắt đầu được tổ chức và định kỳ 2 hoặc 3 năm một lần. Lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội, giải Bông sen vàng đã được tặng cho khoảng 60 tác phẩm điện ảnh, trong đó có Nổi gió, Người chiến sĩ trẻ và Nguyễn Văn Trỗi. Lần thứ hai được tổ chức năm 1973, có gần 40 tác phẩm được Bông sen vàng.
Trong giai đoạn 1965 đến 1975, tổng cộng điện ảnh miền Bắc đã sản xuất 49 phim truyện.
Nguồn : Wikipedia
▬ (1959) Chung Một Dòng Sông (Song Kim, Mạnh Linh...)
▬ (1961) Vợ Chồng A Phủ (Trần Phương, Đức Hoàn, Hoà Tâm...)
▬ (1962) Con Chim Vành Khuyên
▬ (1963) Chị Tư Hậu
▬ (1966) Nguyễn Văn Trỗi
▬ (1966) Nổi Gió
▬ (1973) Vĩ Tuyến 17 Ngày Và Đêm
▬ (1975) Em Bé Hà Nội
▬ (1975) Sao Tháng Tám
Điện Ảnh Việt Nam Cộng Hòa
Điện Ảnh Việt Nam Cộng Hòa
Nguồn : CD Nhạc Việt tổng hợp từ các nhật báo Hòa Bình, Sóng Thần, Chính Luận và website cinemasie
Asia 68 - Sài Gòn Nỗi Nhớ (2011)
Asia 68 - Sài Gòn Nỗi Nhớ (2011)
MC: Nam Lộc,Ngọc Đan Thanh,Thùy Dương,Việt Dzũng
1. Saigon Ơi Vĩnh Biệt(Nam Lộc) -Hồ Hoàng Yến & Tất cả nghệ sĩ
2. Một Thoáng Saigon(Bảo Phúc,Vũ Tuấn Bảo)- Philip Huy & Diễm Liên / Mưa(Văn Phụng) - Hà Thanh Xuân
3. Mời Em Về(Việt Dzũng) - Y Phương
4. Ghé Bến Saigon(Văn Phụng) - Trish
5. Con Đường Tình Ta Đi(Phạm Duy) - Thanh Lan & Vũ Khanh
6. Trường Cũ Tình Xưa(Duy Khánh) - Đặng Thế Luân & Tâm Đoan
7. Bóng Nhỏ Đường Chiều(Trúc Phương) - Y Phụng /Tôi Trở Về Thành Phố(Y Vân) - Cardin
8. Thành Phố Sau Lưng(Hàn Châu) - Giang Tử / Con Đường Xưa Em Đi(Châu Kỳ,Hồ Đình Phương) - Mỹ Huyền
9. Saigon Niềm Nhớ Không Tên(Nguyễn Đình Toàn) - Thanh Thúy
10. Khóc Một Giòng Sông(Đức Huy) - Nguyễn Hồng Nhung
11. Sàigòn Về Miền Dĩ Vãng(Trúc Hồ) - Lâm Nhật Tiến
12. Saigon(Y Vân) - Sơn Ca & Phương Hồng Quế & Băng Châu
13. Chiều Cuối Tuần(Trúc Phương) - Hoàng Oanh
14. Đêm Nhớ Về Saigon(Trầm Tử Thiêng) - Quốc Khanh
15. Mưa Sàigòn Còn Buồn Không Em(Nguyệt Ánh) - Thiên Kim / Chiều Một Mình Qua Phố(Trịnh Công Sơn) - Đoàn Phi
16. Hài kịch Xóm Nhỏ Tình Người - Quang Minh & Hồng Đào & Mỹ Huyền & Diễm Liên
17. Nỗi Buồn Hoa Phượng(Thanh Sơn) - Băng Tâm
18. Saigon Kỷ Niệm(Anh Bằng) - Đan Nguyên
19. Bay Đi Cánh Chim Biển(Đức Huy)-Lê Anh Quân / Thương Nhau Ngày Mưa,Một Giấc Mơ(Nguyễn Trung Cang) - Thùy Hương
20. Lu Bút Ngày Xanh(Thanh Sơn) - Tường Nguyên & Tường Khuê
21. Saigon Vẫn Mãi Trong Tôi(Anh Bằng,Trúc Hồ) - Mai Thanh Sơn
22. Tân cổ Chiều Thương Đô Thị(Song Ngọc,Hoài Linh/Tân cổ:Ngọc Huyền) - Ngọc Huyền & Phương Vũ
23. Một Lần Đi(Nguyệt Ánh) - Lâm Thúy Vân
24. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ(Nguyễn Đức Quang) - Hợp Ca
25. Biết Bao Giờ Trở Lại(Ngô Thụy Miên) - Nguyên Khang
Đây là Blog sưu tầm, hệ thống tư liệu về danh mục (list băng dĩa nhạc) và hình ảnh các chương trình nhạc Việt Nam được phát hành trong và ngoài nước qua các thời kỳ. Trong khả năng hạn hẹp, mục đích của chúng tôi nhằm lưu trữ, chia sẻ thông tin cùng những người yêu âm nhạc Việt và sưu tập băng dĩa nhạc, qua đó góp phần nhỏ vào sự bảo tồn một phần văn hóa Việt.
Tất cả các liên kết ngoài (nếu có) và hình ảnh bìa băng dĩa nhạc được tìm kiếm từ Internet qua hảo tâm chia sẻ công khai với cộng đồng mạng của những nhà sưu tập sở hữu chúng. Những tập tin nhạc dạng MP3 có thể nghe tại đây được nhúng từ các kênh âm nhạc Official trên Youtube...Blog không sở hữu hình ảnh cover, không upload bất kỳ tập tin âm thanh nào tại đây cũng như không có mối liên hệ với các website và host chứa tập tin. Nếu quý vị có căn cứ xác định quyền sở hữu của các tập tin trong liên kết, vui lòng thông báo DCMA trực tiếp đến các website chứa các tập tin âm thanh đó.
Blog không kinh doanh các sản phẩm âm nhạc và không có các file nhạc chia sẻ nên quý vị vui lòng không liên hệ hỏi mua bán băng dĩa hoặc xin link tải. Blog cũng xin phép không hồi đáp những yêu cầu trên!
Chúng tôi hoan nghênh việc bạn mua các album gốc, folow, like và subscribe theo dõi các kênh Youtube chính thức của các trung tâm phát hành. Việc ủng hộ bản quyền giúp nhà phát hành đủ khả năng tái tạo những sản phẩm tinh thần hấp dẫn hơn, đa dạng hơn, phục vụ công chúng. Chúc quý vị nhiều sức khỏe, thành công và xin chân thành cảm ơn đã ghé thăm!